Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng kỹ thuật “brainstorming” trong các tiết dạy tiếng Anh chương trình mới cho học sinh THPT

docx 26 trang sk11 04/07/2024 960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng kỹ thuật “brainstorming” trong các tiết dạy tiếng Anh chương trình mới cho học sinh THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng kỹ thuật “brainstorming” trong các tiết dạy tiếng Anh chương trình mới cho học sinh THPT

Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng kỹ thuật “brainstorming” trong các tiết dạy tiếng Anh chương trình mới cho học sinh THPT
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
 TRƯỜNG THPT NGÔ GIA TỰ
 ----------
 BÁO CÁO KẾT QUẢ 
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
 Tên sáng kiến:
 “ÁP DỤNG KỸ THUẬT “BRAINSTORMING” TRONG 
 CÁC TIẾT DẠY TIẾNG ANH CHƯƠNG TRÌNH MỚI 
 CHO HỌC SINH THPT”
Tác giả sáng kiến: ĐÒAN THỊ THANH LOAN
 Mã sáng kiến: ................ 
 Lập Thạch, tháng 01 năm 2020
 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THPT: Trung học Phổ thông
THCS: Trung học cơ sở
BSM: Brainstorming
PPDH: Phương pháp dạy học
PTDH: Phương tiện dạy học
 KTDH : Kỹ thuật dạy học
 Với thực tế giảng dạy tại trường, đa phần học sinh có vốn tích lũy về 
kiến thức ngôn ngữ tiếng Anh rất ít. Vì vậy nếu giáo viên chỉ giảng dạy theo 
một cách thức đơn điệu, lặp lại thì sự buồn tẻ, nhàm chán của không khí tiết 
học cộng với sự e ngại, rụt rè của học sinh sẽ khiến cho tư duy của các em 
dần trở nên ngại và lười hoạt động. Khi giáo viên đặt học sinh vào những tình 
huống có vấn đề và yêu cầu các em phải tìm cách giải quyết chúng, giải quyết 
độc lập, theo cặp hay theo nhóm, thì buộc học sinh phải suy nghĩ theo các 
hướng khác nhau, nhìn nhận vấn đề theo nhiều cách, nhiều khía cạnh và từ đó 
tìm ra cách tốt nhất cho vấn đề đó.
Chính vì lý do đó tôi đã mạnh dạn đề xuất ý tưởng áp dụng kỹ thuật 
“brainstorming” trong các tiết dạy tiếng Anh chương trình mới cho học 
sinh THPT. Việc áp dụng kỹ thuật này sẽ giúp học sinh làm việc một cách 
tích cực, tự giác và chủ động, ngoài ra còn thúc đẩy sự tự tin và sáng tạo của 
các em, tạo cho các em một thói quen tốt trong học tập và một kĩ năng trong 
cuộc sống: biết nhìn nhận một vấn đề nào đó toàn diện hơn.
 2. Tên sáng kiến: “ÁP DỤNG KỸ THUẬT “BRAINSTORMING” TRONG 
 CÁC TIẾT DẠY TIẾNG ANH CHƯƠNG TRÌNH MỚI 
 CHO HỌC SINH THPT”
3. Tên tác giả:
- Họ và tên: ĐOÀN THỊ THANH LOAN
- Địa chỉ: Trường THPT Ngô Gia Tự - Lập Thạch - Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0362 929 905 Email: Loananhngt@gmail.com
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: 
 ĐOÀN THỊ THANH LOAN
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 
 Với đặc điểm như vậy, từ lâu người ta đã sử dụng kỹ thuật này vào trong 
 rất nhiều lĩnh vực đặc biệt là những lĩnh vực, hoạt động cần sự đột phá, 
 sáng tạo và độc đáo như: 
- Phát triển sản phẩm mới
- Quảng cáo
- Giải quyết vấn đề
- Quá trình quản trị
- Quản trị dự án
- Xây dựng nhóm
- Xây dựng kế hoạch kinh doanh
Và dần dần, kỹ thuật này được áp dụng vào quá trình dạy học nhằm mang 
đến cho học sinh, sinh viên một cách thức làm việc mới chủ động, sáng tạo, 
 d. Bắt đầu BSM: Nhóm trưởng chỉ định hay lựa chọn thành viên chia sẻ ý 
 kiến trả lời (hay những ý niệm rời rạc). Người thư ký phải viết xuống 
 tất cả các câu trả lời, nếu có thể công khai hóa cho mọi người thấy (viết 
 lên bảng chẳng hạn). Không cho phép bất kỳ một ý kiến đánh giá hay 
 bình luận nào về bất kỳ câu trả lời nào cho đến khi chấm dứt hoạt động 
 BSM. Trong suốt quá trình này nhóm trưởng phải là người biết cách 
 cân bằng hoạt động của tất cả các thành viên trong nhóm sao cho mỗi 
 người đều có cơ hội đưa ra ý kiến cá nhân của mình, tránh tình trạng 
 một vài người quá tích cực còn những người khác thì hầu như không 
 có ý kiến gì.
 e. Sau khi kết thúc hoạt động, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các 
 câu trả lời. Một số lưu ý về chất lượng câu trả lời, bao gồm:
 • Tìm những câu ý trùng lặp hay tương tự để thu gọn lại.
 • Góp các câu trả lời có sự tương tự hay tương đồng về nguyên tắc 
 hay nguyên lí.
 • Xóa bỏ những ý kiến hoàn toàn không thích hợp.
 • Sau khi đã cô lập được danh sách các ý kiến, hãy bàn luận thêm về 
 câu trả lời chung.
 Với cách thức làm việc như vậy thì dù muốn hay không, dù nhiều ý 
tưởng hay ít thì mỗi thành viên đều phải đưa ra ý kiến cá nhân để đóng góp 
cho vấn đề chung. Và như vậy nếu học sinh tham gia vào các hoạt động BSM 
để tìm cách giải quyết các nhiệm vụ học tập do giáo viên yêu cầu các em sẽ 
không phải sợ hay e ngại rằng ý kiến của mình sẽ bị phản bác. Điều đó thúc 
 Học sinh
 Học sinh
 Giáo viên và học sinh
 Giáo viên và học sinh
 Giáo viên
 Giáo viên
 Truyền thống Tích cực
Nhìn vào sơ đồ trên ta dễ dàng nhận thấy sự biến đổi một cách căn bản, có 
thể nói là sự đảo chiều, trong vai trò của giáo viên và học sinh đối với các 
hoạt động trong lớp học. Nếu như trong PPDH truyền thống, giáo viên là 
người giữ vai trò chủ đạo, là nền móng cho mọi hoạt động, hoạt động của 
giáo viên chiếm phần lớn trong tổng số hoạt động chung của một tiết học 
trong lớp thì ở PPDH tích cực, “linh hồn” của các hoạt động trong lớp chính 
là học sinh. Các em “dành” lấy và chiếm hữu đa phần hoạt động của lớp học.
Trong PPDH mới này, mối tương quan giữa giáo viên và học sinh có thể 
được miêu tả trong sơ đồ sau:
 Với kỹ thuật BSM, học sinh sẽ tự giác tư duy, chủ động và tích cực 
hoạt động để tìm ra các giải pháp cho các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đưa 
ra. Do đó, BSM góp phần vào việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực.
IV.Thực trạng của việc dạy và học tiếng anh
 Tiếng Anh đã là một môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục quốc 
dân của nước ta, song vấn đề dạy và học nó vẫn chưa đạt được sự đồng bộ 
trong hiệu qủa và chất lượng giữa các vùng miền, khu vực. Đặc biệt sự quan 
tâm hứng thú đối với môn học này cũng có sự phân hóa rõ rệt giữa học sinh 
thành thị và học sinh nông thôn, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Sự khác 
biệt này xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan.
 Thứ nhất, giáo viên không tự đổi mới PPDH. Chúng ta đề cập nhiều 
đến việc đổi mới và tính tất yếu của việc đổi mới PPDH. Đó là dạy học tích 
cực, lấy người học làm trung tâm, là chủ thể của hoạt động học tập. Tuy 
nhiên việc đổi mới đó không thể thực hiện trong một sớm một chiều nhất là 
khi PPDH truyền thống ăn sâu tạo nên gốc dễ, tạo nên lối mòn khó thay đổi. 
Chúng ta thẳng thắn nhìn nhận rằng đang tồn tại rất nhiều tiết học tiếng Anh 
không “warm up”. Đơn giản chỉ là kiểm tra bài cũ, kiểm tra sĩ số học sinh và 
ghi tiêu đề bài mới rồi kế tiếp là hàng loạt các hoạt động thuyết trình: thuyết 
trình về nghĩa từ vựng, về cách dùng của một cấu trúc ngữ pháp v.v Các 
tiết dạy diễn ra tương tự không phân biệt đối tượng học sinh, không phân biệt 
nội dung bài học cũng không quan tâm đến việc phải có sự hỗ trợ của một 
phương tiện dạy học nào đó cho phù hợp. Tình trạng đó dẫn đến một không 
khí hết sức nhàm chán và buồn tẻ. Học sinh không hề thấy hứng thú, không 
có yếu tố bất ngờ thu hút các em, không có tình huống có vấn đề để tác động 
 Thứ tư, học sinh không tự đổi mới phương pháp học. Trải qua một thời 
gian học tập ở cấp tiểu học và THCS, học sinh đã tự tìm ra cho mình một 
phương pháp học nhất định. Tuy nhiên, không phải phương pháp nào cũng 
còn phù hợp với các môn học ở cấp THPT, đặc biệt trong trong tình hình đổi 
mới PPDH như ngày nay mà mục tiêu là tạo nên sự chuyển biến, đưa học 
sinh trở thành chủ thể của mọi hoạt động học tập. Tuy nhiên, do thói quen 
hay do những hạn chế nhất định về năng lực học tập, học sinh vẫn giữ những 
phương pháp học tập cũ rất thụ động, không tự giác và tích cực. Điều này đã 
tạo nên một rào cản khiến học sinh không thể lĩnh hội hết tri thức của môn 
học. Các em không đủ tự tin hoặc không tự giác tham gia vào các hoạt động 
học tập. Điều này khiến cho tiết học trở nên vô cùng khó khăn và không hiệu 
quả.
 Với tất cả những tồn tại trên, để quá trình dạy - học tiếng Anh đạt hiệu 
quả thì bản thân giáo viên phải biết khắc phục tất cả những hạn chế từ phía 
học sinh và những thiếu thốn về PTDH, tự đổi mới PPDH của mình, kết hợp 
với những KTDH mới bên cạnh việc tận dụng những điều kiện hiện tại nhằm 
“cách mạng hóa” một giờ học tiếng Anh truyền thống.
V. Giai pháp nâng cao hiệu quả của việc dạy và học tiêng anh bằng cách 
áp dụng BRAINSTORMING.
 Như đã đề cập, BSM là một kỹ thuật dùng sự hỗ trợ của sơ đồ tư duy 
nhằm tìm ra các giải pháp cho một vấn đề, và nó thật sự hiệu quả khi làm 
việc theo nhóm. Làm việc theo nhóm đã là một hình thức hoạt động mới 
nhằm đổi mới PPDH mà ở đó giáo viên chỉ giữ vai trò định hướng, tổ chức 
và cố vấn còn học sinh mới là chủ thể tích cực, chủ động tìm ra hướng giải 
 Bước 3: Tiến hành hoạt động BSM. Nhóm trưởng sẽ điều khiển các 
thành viên trong nhóm BSM, tức là yêu cầu tất cả các thành viên đều phải có 
ý tưởng hay ý kiến về vấn đề và thư ký có nhiệm vụ ghi chép tất cả (ngoại trừ 
những ý kiến trùng lặp). Trong một số trường hợp có thể chấp nhận ý kiến 
được đưa ra bằng tiếng Việt nếu một số học sinh có hạn chế về năng lực học 
tập môn tiếng Anh như vốn từ ít. Các thành viên có thể nói ra ý kiến của 
mình (speak out) để thư ký ghi chép hoặc viết ra giấy (giấy viết, giấy take-
note, giấy stickertùy theo sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh) các suy 
nghĩ của mình về vấn đề rồi đưa cho thư ký tổng hợp.
 Ở bước này, giáo viên là người quan sát tổng quát hoạt động của các 
nhóm, cung cấp một vài gợi ý hoặc hỗ trợ, hoặc động viên, khích lệ cho một 
vài đối tượng học sinh nhất định trong các nhóm.
 Trong trường hợp giáo viên giữ đồng thời hai vai trò: vừa là người điều 
khiển, vừa là thư ký thì có thể gọi học sinh phát biểu ý kiến, giáo viên viết 
câu trả lời của học sinh lên bảng một cách ngẫu nhiên không cần sắp xếp theo 
thứ tự cụ thể nào, hoặc yêu cầu học sinh viết ý kiến ra giấy rồi dán lên bảng. 
Để thu hút và tạo ấn tượng có thể dùng các giấy sticker, bút nhiều màu sắc.
 - (Chưa yêu cầu học sinh mở SGK), tôi viết từ khóa “Music” lên bảng và 
 bắt đầu chia học sinh thành các nhóm. Yêu cầu mỗi nhóm chọn nhóm 
 trưởng và thư ký.
 - Yêu cầu các nhóm phải tìm ra càng nhiều càng tốt các từ vựng hay hoạt 
 động có liên quan đến chủ đề này trong thời gian 3 phút.
 - Các nhóm trưởng tự điều khiển các thành viên trong nhóm tìm từ vựng 
 có liên quan đến chủ đề “Music”, khuyến khích mọi thành viên, dù đưa 
 ý kiến bằng tiếng Việt. Các thành viên khác sẽ hỗ trợ tìm từ tiếng Anh 
 tương ứng.
 - Yêu cầu các nhóm báo cáo kết quả tìm được và giáo viên sẽ thống kê 
 kết quả của các nhóm để tạo nên một sơ đồ từ vựng theo chủ đề rộng 
 nhất có thể.
Kết quả của hoạt động BSM được thể hiện trong sơ đồ dưới đây:
 rè do những hạn chế của bản thân để tham gia vào hoạt động chung. Và các 
em bị lôi cuốn vào hoạt động. Với một phần mở đầu như vậy thì những yêu 
cầu mới của bài học sẽ được các em đón nhận và tìm cách giải quyết trong 
một tâm trạng thoải mái, tự tin hơn, chủ động hơn, tích cực hơn và tự giác 
hơn. Và kết quả dễ thấy là bài học sẽ đạt được những hiệu quả nhất định.
 Ví dụ 2: SGK Tiếng Anh 11, unit 5: Being a part of ASEAN -Speaking.
 Sau khi học xong phần Reading, học sinh đã nắm bắt được những 
thông tin cơ bản về các quốc gia ASEAN. Và để các em có cơ hội tìm hiểu 
thêm thông tin về, giúp các em có nguồn thông tin phong phú và thú vị để 
bước vào bài học Speaking tôi đã kết hợp kỹ thuật BSM với PPDH dự án: 
yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm tìm hiểu các thông tin liên quan đến các 
quốc gia ASEAN trước khi tham gia giờ học Speaking. Để hoàn thành được 
“dự án” này buộc học sinh phải dùng kỹ thuật BSM để phân tích vấn đề và 
vạch định xem sẽ phải thu thập những loại thông tin nào. Với kỹ thuật này, 
học sinh có thể xây dựng một sơ đồ thông tin như sau: 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_ap_dung_ky_thuat_brainstorming_trong_c.docx