Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học làm văn theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách

docx 56 trang sk11 02/06/2024 1320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học làm văn theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học làm văn theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học làm văn theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
 ----------------
 S¸NG KIÕN KINH NGHIƯM
 ng÷ v¨n
 §Ị tµi 
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LÀM VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG
 PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC CHO HỌC SINH 
 LỚP 11 TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN SỸ SÁCH
 Người thực hiện: Trần Thị Thanh Tú
 Lê Thị Lương lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, chương 
trình mơn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngơn ngữ và năng lực văn học 
thơng qua hệ thống kiến thức phổ thơng cơ bản về văn học, tiếng Việt và các kĩ năng 
đọc, viết, nĩi và nghe.” Để đáp ứng được mục tiêu dạy học Ngữ văn trong trường phổ 
thơng như đã nĩi ở trên, địi hỏi cần thay đổi phương pháp dạy học, đĩ là lấy học sinh 
làm trung tâm và phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. 
Trong đĩ dạy học phát triển năng lực cho học sinh là cơ bản. 
2. Phân mơn Làm văn trong chương trình Ngữ văn THPT
 Chương trình Ngữ văn THPT, phân mơn Làm văn chiếm một vị trí khá quan 
trọng nhưng tương đối khĩ đối với cả người dạy và người học. Kĩ năng làm văn là 
thước đo năng lực ngơn ngữ, vốn sống, vốn văn học qua các kỹ năng như: nhận thức, 
tư duy, hành văn, lập luận, tạo lập văn bản, . Với tư cách là một bộ phận của mơn 
Ngữ văn, phần làm văn trong nhà trường phổ thơng cĩ mục đích là hình thành và phát 
triển ở học sinh “năng lực sử dụng tiếng Việt” trong đĩ cĩ năng lực tạo lập văn bản 
(dạng viết, dạng nĩi), năng lực tự chủ, tự học, năng lực cảm thụ văn học, năng lực tư 
duy và giải quyết vấn đề, . Tư duy logic trong việc phân tích đề văn, hình thành ý 
tưởng, tìm ý, sắp xếp ý, sử dụng các thao tác lập luận trong bài viết, rà sốt và đánh 
giá bài viết. Tư duy hình tượng được thể hiện trong việc xây dựng các hình tượng 
trong văn miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận văn học. Sản phẩm bài viết của học 
sinh gĩp phần thể hiện tổng hợp vốn sống, vốn văn học, nhân cách của các em. Qua 
bài viết, học sinh bộc lộ con người thực của mình. Bởi vậy, việc dạy làm văn cịn cĩ 
nhiều thuận lợi để hình thành các phẩm chất tốt đẹp cho người học.
 Như vậy, việc dạy học làm văn ở trường phổ thơng hướng tới mục tiêu hồn 
chỉnh tri thức và kĩ năng về các kiểu văn bản; nâng cao năng lực sử dụng ngơn ngữ 
nhằm đạt hiệu quả cao trong giao tiếp, bồi dưỡng năng lực tư duy, năng lực giải quyết 
vấn đề và gĩp phần hình thành các phẩm chất tốt đẹp cho học sinh.
 Tuy nhiên, làm văn lại là phần học được xem là khơ khan, trừu tượng, khĩ dạy 
và ít hấp dẫn. Thầy ngại dạy, trị chán học đang là một thực tế phổ biến ở phân mơn 
làm văn, trong đĩ cĩ các trường THPT trên địa bàn huyện Thanh Chương (Nghệ An). 
Do đĩ, người dạy chưa làm rõ được mục tiêu của phân mơn làm văn và chưa phát 
triển được các phẩm chất, năng lực của mơn Ngữ văn qua làm văn cho học sinh. 
 3. Trong thời gian dạy học chúng tơi đã cĩ ý thức tích lũy, nghiên cứu, tìm tịi 
để đổi mới phương pháp dạy học làm văn nhằm trong trường THPT nhằm kích thích 
sự hứng thú của học sinh, hướng tới phát triển các phẩm chất, năng lực học sinh và đã 
đạt được hiệu quả.
 2 II. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LÀM VĂN THEO ĐỊNH 
HƯỚNG PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC
 III. CÁCH THỨC TRIỂN KHAI ÁP DỤNG
 C. KẾT LUẬN
 I. ĐĨNG GĨP CỦA ĐỀ TÀI
 II. KHẢ NĂNG MỞ RỘNG CỦA ĐỀ TÀI
 III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
 IV. THỜI GIAN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
 - Hình thành ý tưởng: năm học 2016 - 2017
 - Nghiên cứu và thể nghiệm đề tài:
 + Năm học: 2017 – 2018
 + Năm học: 2018 – 2019
 + Năm học: 2019 – 2020
 - Hồn thành sáng kiến kinh nghiệm: Tháng 3/2021
 - Báo cáo thẩm định hội đồng khoa học trường THPT Nguyễn Sỹ Sách: Tháng 
3/2021
 4 thảo Chương trình giáo dục tổng thể giáo dục phổ thơng mới (Bộ GD&ĐT, 2015) 
năng lực được xem “là sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính 
cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,  để thực hiện một loại cơng việc trong 
một bối cảnh nhất định”.
 Những dẫn trích trên đây cho thấy, mặc dầu cĩ những khác biệt nhất định trong 
cách diễn giải nhưng nhìn chung các ý kiến khi nĩi đến năng lực đều nhấn mạnh yếu 
tố khả năng, tính tích cực trong việc tổ chức và hồn thành các hoạt động của con 
người trong học tập cũng như trong giải quyết các tình huống của cuộc sống. Theo đĩ, 
năng lực là khả năng làm việc cĩ hiệu quả những hành động, việc làm cụ thể dựa trên 
việc huy động kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm, sự vận dụng thuần thục các thao tác, 
kĩ năng gắn liền với một thái độ đúng đắn, tích cực và khả năng vận dụng linh hoạt. 
Năng lực là sự tổng hịa giữa vốn hiểu biết, kinh nghiệm, sự thuần thục các thao tác kĩ 
năng cùng khả năng vận dụng vào thực tế để giải quyết những vấn đề đặt ra trong 
cuộc sống. Năng lực khơng do bẩm sinh mà cĩ mà được hình thành qua học tập, lao 
động và sáng tạo.
 Chương trình giáo dục phổ thơng 2018 đã cơng bố mục tiêu giáo dục học sinh 
phổ thơng để rèn luyện 5 phẩm chất và 10 năng lực. Chương trình các mơn học và 
sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy khi triển khai đều hướng tới mục tiêu này, đĩ 
là các phẩm chất: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm. Chương 
trình cũng gĩp phần hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi, 
gồm: năng lực tự chủ và tự học; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn 
đề và sáng tạo. Năng lực chuyên mơn, được hình thành, phát triển chủ yếu thơng qua 
một số mơn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngơn ngữ, năng lực tính 
tốn, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, cơng nghệ, tin học, thẩm mỹ và thể chất.
 Theo đĩ, bộ mơn Ngữ văn bên cạnh hướng tới gĩp phần hình thành cho học 
sinh những phẩm chất, năng lực chung, cịn gĩp phần hình thành ở các em những 
năng lực riêng mà mơn Ngữ văn cĩ ưu thế, thậm chí chỉ cĩ ở mơn Ngữ văn. Đĩ là các 
năng lực như: năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ 
thẩm mĩ, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản bản thân, 
năng lực hợp tác. Bên cạnh tính đặc thù của bộ mơn Ngữ văn, mỗi phân mơn cĩ 
những yêu cầu, ưu thế mang tính đặc thù.
1.2. Tính đặc thù của mơn Làm văn trong yêu cầu phát triển phẩm chất, năng lực 
cho học sinh
 Quan điểm tích hợp đã dẫn tới sự ra đời của mơn Ngữ văn với ba phân mơn: 
Văn học, Làm văn và Tiếng Việt dựa trên sự thống nhất về mục tiêu hình thành kĩ 
năng nghe, nĩi, đọc, viết bằng Tiếng Việt cho HS. Làm văn là phần thực hành tổng 
hợp các kiến thức, kĩ năng của các phần tiếng Việt, Văn học và một phần kiến thức lí 
thuyết làm văn. Yêu cầu quan trọng nhất của làm văn là HS nắm được các lí thuyết cơ 
 6 văn/đoạn thơ; các thao tác lập luận; viết tiểu sử tĩm tắt;  các đề làm văn (nghị luận 
văn học và nghị luận xã hội) cĩ tác dụng kích thích hứng thú và suy nghĩ độc lập của 
HS. Phương pháp dạy học làm văn cũng cĩ nhiều thay đổi tích cực, đĩ là bằng việc 
cho HS hồn thành các nhiệm vụ hoạt động, HS tự phát hiện ra tri thức, nắm chắc các 
phương thức hoạt động, từ đĩ mà chiếm lĩnh tri thức, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo 
cần thiết.
 Vấn đề kiểm tra, đánh giá trong phân mơn làm văn cũng gĩp phần phát triển 
năng lực cho HS.Kiểm tra, đánh giá là một mắt xích cĩ mối quan hệ qua lại với tồn 
bộ quá trình dạy và học.Điều đĩ cĩ nghĩa là việc kiểm tra, đánh giá khơng chỉ được 
thực hiện bằng các đề thi, bài thi mà trải ra cả quá trình dạy học, đặc biệt là các hoạt 
động trên lớp cũng như ở nhà của người học. Trên tinh thần ấy, thái độ tham gia, chất 
lượng hoạt động của HS trong quá trình phát hiện tri thức, thực hành luyện tập là căn 
cứ rất quan trọng để đánh giá quá trình dạy và học. 
 Theo mục tiêu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, dạy học Ngữ văn cần 
bồi dưỡng, phát triển các phẩm chất, năng lực Ngữ văn đa dạng của người học, giúp 
họ tự nhìn thấu những mối liên hệ giữa văn chương và cuộc đời để cĩ thể tích cực, 
chủ động và sáng tạo trong mơi trường sống cụ thể. Dạy học làm văn trong chương 
trình THPT hiện nay cĩ thể gĩp phần phát triển các phẩm chất, năng lực đặc thù của 
mơn Ngữ văn: Qua việc HS làm các bài văn nghị luận văn học, xã hội, cĩ thể gĩp 
phần hình thành các phẩm chất yêu nước, nhân ái, trách nhiệm, trung thực. Việc học 
sinh phát hiện được những tình huống cĩ trong đề văn và văn bản, HS lí giải được 
các hiện tượng văn học và hiện tượng trong đời sống cũng như những vấn đề về tư 
tưởng, đạo lí, đứng trước những hiện tượng khác nhau, học sinh biết nhìn nhận và 
đánh giá một cách thỏa đáng, hợp lí sẽ gĩp phần hình thành và phát triển năng lực 
giải quyết vấn đề.
 Năng lực sáng tạo được thể hiện thơng qua các bài viết của HS. Đĩ là sự mới 
mẻ trong cách cảm nhận của HS, hoặc cách diễn đạt mới lạ những nội dung vốn đã 
quen thuộc. Để đáp ứng yêu cầu này, đề văn cần tạo điều kiện cho HS suy nghĩ độc 
lập, tích cực. Đề văn chỉ nêu vấn đề là chủ yếu, cịn HS tự mình xác định hướng giải 
quyết. Đồng thời, qua đề văn và trong quá trình dạy học, người GV cần hướng tới 
việc rèn luyện cho HS khả năng tư duy năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nêu vấn 
đề và dám lật ngược những vấn đề tưởng như đã là chân lí.
 Phân mơn làm văn cịn cĩ ưu thế trong việc phát triển năng lực giao tiếp tiếng 
Việt của HS. Như chúng ta đã biết, mục tiêu quan trọng nhất của phân mơn Làm văn 
vẫn là tạo lập được văn bản để đạt hiệu quả cao trong giao tiếp. Những tri thức, kĩ 
năng làm văn khơng chỉ giúp HS trong việc tạo lập được các loại văn bản trong đời 
sống mà cịn gĩp phần nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp cũng như 
trong cuộc sống. Mặt khác, khi học làm văn, trong quá trình lập luận, HS phải huy 
 8 dạy học truyền thống và phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu bén rễ trong suy 
nghĩ của GV. Thêm vào đĩ là sức ì, tâm lý ngại đổi mới, ngại khĩ cũng là rào cản đối 
với GV trong việc đổi mới phương pháp dạy – học theo định hướng phát triển phẩm 
chất, năng lực.
 Để cĩ cái nhìn khách quan về tình hình dạy – học làm văn ở trường THPT hiện 
nay, chúng tơi đã tiến hành khảo sát thực tế việc dạy – học của GV qua việc dự giờ, 
trao đổi, phỏng vấn giáo viên. 
 Đối tượng khảo sát là GV dạy mơn Ngữ văn trên địa bàn huyện Thanh Chương. 
Cụ thể là ở 3 trường: Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, THPT Đặng Thai Mai, THPT 
Đặng Thúc Hứa. Cĩ 36 GV trả lời câu hỏi. Nội dung khảo sát xoay quanh vấn đề về 
nhận thức, quan niệm, phương pháp dạy học làm văn theo hướng phát triển năng lực 
Ngữ văn cho HS THPT. Kết quả khảo sát xin xem ở phần Phụ lục. 
 Trả lời câu hỏi về tính cần thiết của việc dạy học làm văn theo định hướng phát 
triển năng lực cĩ 31/36 GV cho rằng điều này là cần thiết và cĩ tính khả thi (chiếm tỉ 
lệ 86,1%). Trên thực tế một số GV rất cĩ ý thức trong việc đổi mới dạy học nhằm 
hình thành và phát huy năng lực,phẩm chất HS bằng những phương pháp khác nhau, 
như thảo luận nhĩm, dạy học nêu vấn đề, ra những đề văn cĩ tính “mở”, gây nhiều 
tranh cãi, nhiều ý kiến trái chiều. Song, bên cạnh đĩ vẫn cịn nhiều GV chưa chú ý 
hình thành và phát triển năng lực Ngữ văn cho HS trong dạy học Làm văn. Cĩ 15/36 
GV (chiếm tỉ lệ 41,7 % ) cho rằng khi dạy làm văn ít chú ý đến việc hình thành và 
phát triển năng lực Ngữ văn cho HS. 
 Thực tế dạy học giáo viên chỉ chú trọng dạy phần đọc văn, tức dạy đọc hiểu, 
dạy tiếp nhận văn bản mà chưa chú ý đúng mức đến việc dạy HS tạo lập văn bản, dạy 
học làm văn. Dựa trên thực tế dạy học và qua dự giờ, chúng tơi thấy việc dạy học làm 
văn ở nhà trường phổ thơng hiện nay vẫn cịn nhiều hạn chế.
 Hạn chế thứ nhất là việc dạy học làm văn ở phổ thơng hiện nay chưa chú ý dạy 
cho HS quá trình tạo lập văn bản, chưa chỉ ra được các bước tiến hành tạo lập văn bản 
mà chỉ chú trọng dạy lý thuyết, cho HS nhận diện các kiểu bài. Hạn chế này do GV 
luơn xem SGK là pháp lệnh, ngại thay đổi, rập khuơn theo những gì cĩ sẵn. Hạn chế 
này dẫn đến việc HS khơng nắm được cách viết, chỉ cĩ thể bắt chước theo những bài 
mẫu cĩ sẵn.
 Hạn chế thứ hai là giáo viên chủ yếu dạy làm văn để kiểm tra kiến thức của 
HS.Ví dụ như viết bài phân tích, cảm nhận về một tác phẩm, một hình tượng văn 
học.Khi đĩ, HS viết bài làm văn như là một cách để ơn tập lại kiến thức đã học và trả 
bài những gì đã học được cho GV.GV chưa chú trọng việc dạy cho HS kĩ năng viết 
các loại văn bản đáp ứng nhu cầu giao tiếp trong cuộc sống. Nguyên nhân của hạn chế 
này là do người dạy vẫn cịn nặng về truyền thụ kiến thức cho HS mà chưa chú trọng 
 10

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_lam_van_theo_dinh_huong_phat_t.docx