Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy bài Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu - Ngô Thì Nhậm)

docx 32 trang sk11 31/07/2024 1170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy bài Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu - Ngô Thì Nhậm)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy bài Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu - Ngô Thì Nhậm)

Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy bài Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu - Ngô Thì Nhậm)
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 GIẢNG DẠY BÀI CHIẾU 
 CẦU HIỀN (CẦU HIỀN
CHIẾU) (NGÔ THÌ NHẬM) A.MỞ ĐẦU
 I. Lí do chọn đề tài:
 Trong những năm gần đây cùng với việc đổi mới chương trình, nội 
dung giáo dục, thay sách giáo khoa đã dấy lên phong trào đổi mới phương 
pháp dạy học văn. Hướng đi có nhiều hứa hẹn. Vừa đảm bảo tính cơ bản, 
tinh giản, hiện đại, sát thực tiễn Việt Nam, phù hợp với xu thế tiên tiến 
trên thế giới; vừa phát huy vai trò chủ động tích cực sáng tạo của học sinh, 
vừa đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy ở giáo viên Ngữ văn trung học.
 Như chúng ta đã biết, sách giáo khoa Ngữ văn 11- cơ bản lần này có 
một số thay đổi: có sự thêm, bớt một số tác phẩm. Và lẽ dĩ nhiên, trước 
mỗi tác phẩm mới giáo viên không khỏi lúng túng, trăn trở, lo nghĩ. Đặc 
biệt là những tiết văn học sử, đây là những tác phẩm mới so với chương 
trình cũ . Hơn nữa, những tác phẩm này đa số lại khô khan, khó tạo cảm 
xúc ở các em. Vậy làm thế nào để có một giáo án tốt, một giờ dạy hay, 
một lớp học sinh động, học sinh tích cực, chủ động và hứng thú trong tiết 
học, mà đặc biệt là học sinh hiểu và cảm nhận được giá trị nội dung, nghệ 
thuật của văn bản? Đó là những băn khoăn, trăn trở không chỉ ở riêng tôi 
mà ở mỗi giáo viên Ngữ văn.
 Mặt khác, tôi thiết nghĩ, mỗi bài dạy đều có một vị trí, vai trò quan 
trọng của nó. Song những văn bản mới đưa vào chương trình lại khá khó 
đối với học sinh, thậm chí giáo viên cũng không dễ tiếp cận, giải mã. 
Trong khi đó kinh nghiệm giảng dạy tích lũy chưa nhiều, tư liệu tham 
khảo cũng hạn chế, có bài phải nói là rất hiếm. Vì vậy, với vốn kinh 
nghiệm còn khiêm tốn của bản thân, tôi chỉ xin được trao đổi với quý đồng 
nghiệp cách giảng dạy một bài cụ thể, bài Chiếu cầu hiền ( Ngô Thì 
Nhậm). Bởi theo tôi, Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm viết thay vua 
Quang Trung là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng, cốt cách, đức độ của vua 
Quang Trung và văn phong của Ngô Thì Nhậm. Hơn nữa, với đặc điểm 
tâm hồn dân tộc và truyền thống đào tạo nhân tài cho đất nước thì bài 
chiếu có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong sự nghiệp trồng người.
 Cuối cùng, dạy tốt bài này là ta đã tác động trực tiếp đến việc rèn đức, 
luyện tài, nâng cao kĩ năng lập luận diễn đạt của học sinh; từ đó hình thành 
ở các em ý thức về vai trò của hiền tài, của bản thân trong công cuộc xây 
dựng đất nước.
 Đó là những lý do tôi chọn đề tài Giảng dạy bài Chiếu cầu hiền (Cầu 
hiền chiếu) (Ngô Thì Nhậm) để trao đổi những điều tâm đắc và rất mong 
được quý thầy cô cùng bạn bè đồng nghiệp bổ sung những khiếm khuyết 
để bài giảng ngày càng hoàn thiện hơn.
 II. Đối tượng và mục tiêu của đề tài B.NỘI DUNG CHÍNH
 I. Cơ sở lý luận
 1. Dạy văn trong nhà trường hiện đại
 - Dạy văn là dạy cho học sinh nhận ra trong tác phẩm văn chương 
nguồn tri thức vô cùng phong phú, đa dạng, hấp dẫn và bổ ích để bồi 
dưỡng tâm hồn, trí tuệ để sống có ý nghĩa hơn, sâu sắc hơn, tinh tế hơn. 
Dạy văn là dạy sống, dạy người, dạy mở mang trí tuệ.
 - Trong quá trình dạy văn cần xác định học sinh là nhân vật trung 
tâm, là chủ thể cảm thụ. Giáo viên không được cảm nhận thay mà chỉ là 
người định hướng, “chỉ đường” cho các em đi khám phá tác phẩm. Con 
đường đó bao giờ cũng bắt đầu từ công việc tri giác ngôn ngữ, trải qua 
nhiều chặng, nhiều bước, đi từ bên ngoài vào bên trong tác phẩm. Trên 
con đường đó, người giáo viên có vai trò khơi nguồn, tạo cảm hứng để học 
sinh tích cực tự giác trong việc cảm thụ, chiếm lĩnh tri thức và chủ động 
thưởng thức tác phẩm văn chương. Như vậy, yêu cầu phát huy chủ thể học 
sinh gắn liền với tài năng sáng tạo của người giáo viên. Hay nói đúng hơn 
đó là sự hết hợp nhuần nhuyễn tính nghệ thuật và tính sư phạm trong quá 
trình dạy văn.
 2. Tiếp nhận văn học
 - “Tiếp nhận văn học hay cảm thụ văn học là sống với tác phẩm văn 
chương, rung động với nó, vừa đắm chìm trong thế giới nghệ thuật của 
nhà văn, vừa tỉnh táo lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, 
cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo” (Văn học 12- Tập hai, Phần 
lí luận văn học, Nxb Giáo dục-2002, trang 146).
 - Tiếp nhận văn học có nhiều cách. Tuy nhiên với bài này, tôi hướng
việc cảm thụ của học sinh vào hai cách cơ bản sau:
 + Cảm thụ có chú ý đến nội dung tư tưởng, tình cảm của tác phẩm để 
hiểu xem tác giả muốn nói gì? Và nói bằng cách nào? Từ đó thâm nhập 
vào tác phẩm để hiểu và cảm. Cách này khá dễ và áp dụng được với đa số 
học sinh.
 + Cảm thụ có sự sáng tạo. Nghĩa là phải xem tác phẩm như một 
phương tiện để nghĩ, để cảm, để tự đối thoại với mình và đối thoại với tác 
giả. Kiểu cảm thụ này khó và cao, không phải dễ dàng đạt tới, tìm được ở 
học sinh thật hiếm. Nhưng nhờ nó mà giáo viên phát hiện được những học 
sinh có năng khiếu văn chương, thực sự say mê và rung cảm với văn 
chương. văn bản. Hơn nữa, vì đây là văn bản cổ, sử dụng từ ngữ kinh điển rất nhiều 
nên tôi đặc biệt nhấn mạnh việc đọc phần Chú thích. Làm tốt khâu này, 
các em không chỉ được mở mang về tri thức mà còn giúp tiết học nhẹ 
nhàng, thoải mái hơn.
 - Bài soạn: Đây là sự chuẩn bị có tính chất tích cực, tự giác, có tác 
dụng làm tiền đề, cơ sở để giáo viên phát huy tính tích cực chủ động của 
học sinh trong quá trình lĩnh hội bài mới. Và do có sự chênh lệch về năng 
lực cảm thụ giữa hai lớp, nên tôi yêu cầu cụ thể như sau:
 + Lớp 11 khối A, phần đông là học sinh trung bình và yếu môn văn 
nên tôi chỉ yêu cầu học sinh trả lời những câu hỏi ở mục “Hướng dẫn học 
bài” trong sách giáo khoa.
 + Lớp 11 khối D, đa phần là học sinh khá nên tôi yêu cầu các em soạn 
thêm nội dung sau: Hãy chọn một đoạn hoặc một câu văn mà em tâm đắc 
rồi phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật lập luận của câu văn hoặc 
đoạn văn đó.
 III. Quá trình thực hiện bài giảng
 PHẦN 1: GIỚI THIỆU BÀI MỚI
 Lời vào bài phải ngắn gọn nhưng là khâu không thể bỏ qua. Lời vào 
bài tốt sẽ gây ấn tượng ban đầu, tạo sự hứng thú ngay từ đầu tiết học, khơi 
gợi sự tò mò và khao khát khám phá, tìm hiểu của học sinh. Có nhiều cách 
để vào bài song ở bài này tôi có thể kết hợp với việc kiểm tra bài cũ - bài 
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu) để giới thiệu bài mới 
một cách liền mạch và tự nhiên như sau:
 “ Như vậy, với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu 
đã đưa chúng ta ngược thời gian trở về với một thời đại đau thương mà 
hào hùng của dân tộc. Một dân tộc đã sinh ra những người con “ Lưng 
đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” để làm nên những trang sử vẻ vang cho 
dân tộc, rạng danh dân tộc, là niềm tự hào, là tấm gương của lớp lớp thế 
hệ trẻ Việt Nam. Và hôm nay, chúng ta sẽ đến với những nhân vật lịch sử 
như thế qua bài “ Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung do Ngô Thì 
Nhậm viết thay.
 PHẦN 2: NỘI DUNG BÀI GIẢNG
 (Hoạt động chính của giáo viên và học sinh).
 Hoạt động của giáo Hoạt động của học Nội dung cần đạt
 viên (GV) sinh(HS)
 ♦Hoạt động 1: Hướng - GV giới thiệu ảnh – lệnh hoặc chỉ thị
Slide 4,5 (xem ảnh xuống cấp dưới. Văn 
trang bên). phong trang trọng; lời 
 lẽ rõ ràng, tao nhã.
♦ Hoạt động 2: Hướng 
dẫn HS tìm hiểu khái 
quát về tác phẩm: b. Hoàn cảnh sáng tác: 
(?) Chiếu cầu hiền Bài chiếu do Ngô Thì 
được viết theo thể loại Nhậm viết thay vua 
nào? Em biết gì về thể Quang Trung vào 
loại đó? khoảng năm 1788 – 
(Gợi ý: Hãy nhớ lại - HS trả lời: Vì: 1789, nhằm thuyết phục 
kiến thức đã học lớp + Năm 1788, Quang sĩ phu Bắc Hà ra cộng 
8 - bài Chiếu dời đô của Trung tiến quân ra tác với triều đại Tây 
Lí Công Uẩn). Bắc, tiêu diệt quân Sơn.
- GV chốt ý, bổ sung Thanh và bè lũ tay 
(nếu cần). sai, nhà Lê sụp đổ.
- GV mở rộng: Viết + Bề tôi vua Lê, chúa 
chiếu cầu hiền tài là Trịnh (sĩ phu Bắc Hà) 
một truyền thống văn mang nặng tư tưởng 
hóa chính trị phương trung quân, quan niệm 
Đông thời cổ trung đại. đạo đức bảo thủ; 
Chẳng hạn 1429, Lê không nhận thấy ch 
Lợi xuống chiếu hạ thấy chính nghĩa và sứ 
lệnh tiến cử tiến củ mệnh lịch sử của Tây 
hiền tài và cho phép Sơn nên đã bất hợp 
những hiền tài tự tiến tác với triều đại Tây 
cử. Sơn, thậm chí chống 
 lại Tây Sơn.
(?) Vì sao lúc bấy giờ +Trước tình hình đó, 
Ngô Thì Nhậm phải Quang Trung giao cho c. Bố cục: ba phần:
thay lời vua Quang Ngô Thì Thì Nhậm - Phần 1: “Từ đầu đến 
Trung viết Chiếu cầu viết “Chiếu cầu cầu người hiền vậy.”
hiền? hiền” nhằm thuyết mối quan hệ giữa
- GV chốt ý, bổ sung và phục sĩ phu phu Bắc hiền tài và thiên tử.
hướng dẫn HS gạch Hà ra cộng tác với với - Phần 2: từ “Trước 
chân trong (sgk/68). triều đại mới- triều đại đây..
- GV giới thiệu ảnh – Tây Sơn để xây dựng của trẫm hay sao?”
Slide 6 (xem ảnh trang đất nước cách ứng xử của 
bên). - HS đọc văn bản nho sĩ Bắc Hà và nhu 
- GV nhấn mạnh: Như (sgk/68). cầu đất nước.
vậy nội dung tư tưởng - HS thảo luận nhóm - Phần 3: còn lại thế nào?
(?) Tác giả ví người 
hiền với hình ảnh nào? 
Hình ảnh đó đã nói 
được vai trò và vị trí 
của người hiền như thế 
nào đối với một quốc 
gia, dân tộc
(Gợi ý: Liên hệ với bài - HS trả lời: Người 
đọc thêm Hiền tài là hiền được ví như sao 
nguyên khí quốc gia của sáng trên trời. Sao 
Thân Nhân Trung, lớp sáng ắt chầu về sao 
10). Bắc Đẩu, người hiền 
- GV chốt ý, bổ sung phải hướng về vua. 
(nếu cần) Ngược lại là trái tự 
- GV bình: Hiền tài là nhiên, trái quy luật, 
của quý của nhân dân, trái đạo trời, trái lẽ 
của hiếm của đất nước. đời, khiến tài năng * Nghệ thuật: Lập luận 
Như Thân Nhân Trung đành uổng phí - đó chặt chẽ, rõ ràng bằng 
đã từng nói “hiền tài là không phải là ý trời cách :
nguyên khí của quốc sinh ra người hiền - Dẫn lời của Khổng
gia”. Nếu ta ví von đất vậy. Tử.
nước như một cơ thể Nói tóm lại: phải có - Dùng hình thức so 
sống thì hiền tài chính người hiền thì thiên tử sánh, khẳng định và 
là máu trong tim, là mới làm nên nghiệp phủ định.
hơi trong phổi. Hiền tài lớn và ngược lại Hiền tài phải phò 
là cội nguồn, là nền người hiền muốn vua để giúp nước, giúp 
tảng cho sức mạnh, sự chứng tỏ tài năng, dân.
tồn vong của một quốc đức độ thì phải quy về 
gia, dân tộc. với vua.
(?)Vậy, câu 2, 3 (trong 
phần 1) nói rõ mối 
quan hệ như thế nào 
giữa người hiền và nhà 
vua?(Gợi ý: Có thể diễn 
xuôi để hiểu lớp nghĩa 
bên ngoài, rồi từ đó 
phân tích sâu và khái 
quát nội dung của 2 câu - HS thảo luận nhóm
này.) và
- GV chốt ý, bổ sung đại diện nhóm trả lời. tượng mà bài chiếu
 hướng đến là sĩ phu Bắc 
 Hà - những con người 
 thời trung đại, họ có nét 
 tâm lí đặc thù: noi theo 
 tiền nhân, dựa vào 
 mệnh trời; lời của tiền 
 nhân là khuôn vàng 
 thước ngọc để họ làm 
 theo.
 GV phân tích thêm: 
 Nếu như câu 1 dùng 
 hình ảnh so sánh “như”, 
 thì câu 2 dùng hình thức 
 khẳng định “ắt” và câu
 3 lại dùng hình thức 
 phủ định “không”. Tất 
 cả những hình thức đó 
 đều củng cố cho luận 
 điểm, làm rõ cho luận 
 điểm: Người hiền và 
 thiên tử có mối quan hệ 
 chặt chẽ. Và ta hãy học 
 ở tác giả cách thức lập 
 luận chặt chẽ, đầy 
 thuyết phục này để 
 vận dụng vào bài văn 
 nghị luận, vào cuộc 
 sống.
 (?) Tóm lại, các em có 
 nhận xét gì về lời mở 
 đầu của bài chiếu?
 HẾT TIẾT 1, CHUYỂN SANG TIẾT 2
 GV chuyển ý: Trên đây, chúng ta vừa tìm hiểu một phần của văn 
bản. Tuy chưa nhiều nhưng có lẽ các em đã phần nào cảm nhận được sức 
mạnh của bài chiếu. Có thể nói, vẻ đẹp của văn bản này không phát lộ rực 
rỡ ở bề ngoài mà tiềm ẩn trong chiều sâu của cảm xúc, của suy ngẫm, như 
một vì tinh tú càng nhìn lại càng sáng. Vậy chúng ta hãy tiếp tục khám

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_giang_day_bai_chieu_cau_hien_cau_hien.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy bài Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu - Ngô Thì Nhậm).pdf