Sáng kiến kinh nghiệm Hệ thống hóa kiến thức lịch sử bằng sơ đồ
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hệ thống hóa kiến thức lịch sử bằng sơ đồ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hệ thống hóa kiến thức lịch sử bằng sơ đồ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC LỊCH SỬ BẰNG SƠ ĐỒ II. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với “Hệ thống hóa kiến thức lịch sử bằng sơ đồ”. Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là lớp 11a2 và 11a3 của trường THPT Phú Tâm III. Phương pháp nghiên cứu Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy. Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử. Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử lớp 11 Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của việc đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy môn lịch sử lớp 11, để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh giá cần phối hợp các phương pháp hiện đại, trong đó có phương pháp kiểm tra bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. Cơ sơ lí luận: 1. Những yêu cầu chung đối với giáo viên lịch sử: Bất cứ giáo viên bộ môn nào đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn lành mạnh, trong sáng, có lòng nhiệt thành đối với nghề nghiệp, có thế giới khách quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần hình thành thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng. Không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ môn, có phương pháp dạy tốt, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy và nghiệp vụ. dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng công nghệ thông tin Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Đa số học sinh tham gia tích cực trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp các em đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình. b. Hạn chế: Vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn sách giáo khoa hoàn toàn. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi và chỉ gọi một số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm cho đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia hoạt động đều này làm cho các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy chán nản và không yêu thích môn học. Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh chưa xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn có tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết. c. Điều tra cụ thể: 2. Đối với giáo viên: Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện tử), bản đồ tranh ảnh, sơ đồ. Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề. Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ kiến thức cũ. Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay các thắc mắc của học sinh. Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, không, sai. Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao? Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề. Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái. Khi học sinh trả lời giáo viên phải nhận xét câu trả lời của học sinh, nếu thiếu có thể cho một học sinh khác bổ sung hoặc giáo viên trình bày cụ thể. Nếu dạy những bài có các danh nhân, vị anh hùng dân tộc nên sơ lược thân thế sự nghiệp, kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức. Nội dung bài phải thật ngắn gọn cô động nhưng phải đảm bảo nội dung cơ bản, cần nhấn mạnh ý chính của bài. 3. Một số giải pháp thực tế trong việc hệ thống kiến thức lịch sử bằng sơ đồ trong dạy học lịch sử lớp 11: Chương trình lịch sử lớp 11 gồm 3 phần: Lịch sử thế giới cận đại (tiếp theo), lịch sử thế giới hiện đại (từ năm 1917 – 1945), lịch sử Việt Nam (1858 – 1918). Các phần này kế tiếp chương trình lớp 10, vì thế khi học tập học sinh không thể nắm những kiến thức từng giai đoạn, từng nội dung cụ thể, mà còn phải tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự kiện trong sự phát triển chung, thống nhất Chính sách của thực dân Pháp Kinh tế phong kiến Việt Nam Cơ cấu mất Phụ thuộc cân đối Lạc hậu, què quặt Những chuyển biến mới về kinh tế ở Việt Nam Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp kéo theo sự biến đổi về mặt xã hội, đó là sự phân hóa giai cấp sâu sắc, đồng thời xuất hiện thêm một số giai cấp mới, phần này yêu cầu học sinh phải nắm rõ các giai cấp trong xã hội, giáo viên có thể cho học sinh trình bày sau đó khắc sâu kiến thức bằng sơ đồ sau: Chế độ Chế độ thuộc địa Chế độ phong kiến nửa phong kiến thuộc địa Địa chủ Nông dân TTS, trí Tư sản Công nhân thức Sơ đồ sự thay đổi cơ cấu xã hội Việt Nam sau khi bị Pháp đô hộ - Phong trào công nhân TK XIX – đầu TK XX và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học - Về các nước Châu Á, Châu Phi và khu vực Mĩ Latinh từ giữa TK XIX đến đầu TK XX - Về cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và kết cục của nó Lịch sử thế giới cận đại là giai đoạn hình thành và phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản được hình thành và xác lập qua các cuộc cách mạng tư sản. Từ giữa TK XIX đến đầu TK XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn CNTB độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Để học sinh hệ thống được kiến thức, nắm được nội dung cơ bản của một thời kì lịch sử, giáo viên phải thống kê kiến thức qua sơ đồ, sau khi học sinh trình bày giáo viên sẽ củng cố lại kiến thức bằng sơ đồ sau: 4. Kết quả đạt được: Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả quan, sử dụng sơ đồ phù hợp trong việc củng cố kiến thức trong bài hoặc hệ thống kiến thức chương hoặc cả thời kì lịch sử. Học sinh nắm vững được kiến thức cơ bản, ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà quan trọng là học sinh hiểu được lịch sử nắm được bản chất của sự kiện, giúp học sinh tổng hợp, phân tích, so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản chất các sự kiện Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % SL % 11a2 35 13 37,1 12 34,3 10 28,6 11a3 30 6 20,0 14 46.7 9 30,0 1 3,3 C. KẾT LUẬN I. Kết luận: “Dân ta phải biết sử ta” không chỉ là mối quan tâm của Bác, đó cũng là nỗi trăn trở của những giáo viên dạy môn lịch sử, chúng tôi luôn mong muốn học sinh của mình hiểu được nội dung bài, hiểu được lịch sử của dân tộc từ đó các em sẽ cảm thấy yêu thương gắn bó với quê hương đất nước mình hơn. Phương pháp trên đã được áp dụng thực tế ở trường THPT Phú Tâm và cũng đạt được kết quả phát huy được tính tích cực của học sinh, rèn được kĩ năng tổng hợp, phân tích, so sánh, các em biết sử dụng sách giáo khoa, vận dụng kiến thức cũ để hiểu kiến thức mới. Giúp học sinh hiểu bài nhanh, thu hút sự cảm hứng đối với môn học này và học sinh có thể hiểu và nhớ bài ngay tại lớp, đồng thời giúp học sinh nhận thức được một cách sâu sắc về vị trí tầm quan trọng của lịch sử trong xã hội mà bấy lâu nay hầu như các em chưa mấy quan tâm. Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi, phần lớn dựa vào tình hình học tập của học sinh trường THPT Phú Tâm nên khả năng áp dụng thực tiễn không rộng rãi và chắc chắn có nhiều hạn chế, kính mong quí thầy cô đóng góp ý kiến thêm. Tôi chân thành cảm ơn! II. Kiến nghị: Hiện nay trong nhà trường đã được cấp nhiều thiết bị dạy học tuy vậy đối với môn lịch sử thì đồ dùng còn quá ít, vì vậy muốn đạt kết quả cao trong bộ môn này cần có thêm những yêu cầu sau: - Cần có đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa, các chân dung nhân vật lich sử - Cần tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học - Nên có những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ: I. Lí do chọn đề tài: Trang 1 II. Phạm vi nghiên cứu: Trang 2 III. Phương pháp nghiên cứu: Trang 2 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. Cơ sở lí luận: Trang 3 1. Những yêu cầu chung đối với giáo viên lịch sử: Trang 3 2.Thực trạng dạy và học ở trường THPT Phú Tâm: Trang 4 II. Giải pháp thực hiện: Trang 5 1. Đối với học sinh: Trang 5 2. Đối với giáo viên: Trang 6 3. Một số giải pháp thực tế trong việc hệ thống kiến thức lịch sử bằng sơ đồ trong dạy học lịch sử lớp 11: Trang 7 4. Kết quả đạt được: Trang 12 III. Bài học kinh nghiệm: Trang 12 C. KẾT LUẬN: I. Kết luận: Trang 14 II. Kiến nghị: Trang 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 17
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_he_thong_hoa_kien_thuc_lich_su_bang_so.docx
- Sáng kiến kinh nghiệm Hệ thống hóa kiến thức lịch sử bằng sơ đồ.pdf