Sáng kiến kinh nghiệm Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua bài 3 lớp 11 môn Giáo dục quốc phòng – An ninh Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua bài 3 lớp 11 môn Giáo dục quốc phòng – An ninh Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua bài 3 lớp 11 môn Giáo dục quốc phòng – An ninh Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGUYỄN DUY TRINH TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRƯỜNG TỘ (HƯNG NGUYÊN) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA THÔNG QUA BÀI 3 LỚP 11 MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH: BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ VÀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA" Người thực hiện: Trần Văn Mạnh - Ngô Sỹ Thanh Thảo Lĩnh vực: Giáo dục Quốc phòng - An ninh Số điện thoại: 0973.490.051 - 0349.148.226 Năm học: 2020 - 2021 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết thường Viết tắt Trung học phổ thông THPT Giáo dục Quốc phòng - an ninh GDQP - AN Sách giáo khoa SGK Sách giáo viên SGK Phương pháp dạy học PPDH Học sinh HS Giáo viên GV Phương pháp giáo dục PPGD Tình huống TH Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam CHXHCNVN Biên giới Quốc gia BGQG Trường Sa TS Hoàng Sa HS Cộng hòa nhân dân CHND. quyền lãnh thổ và biển, đảo Quốc Gia thông qua bài 3: Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia (GDQP - AN lớp 11). Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc giảng dạy bài 3: "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" ở nhiều trường THPT còn mang tính "truyền thụ tri thức một chiều", dạy học vẫn còn nặng về truyền thụ kiến thức lý thuyết. Còn chưa chú trọng vào giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của học sinh. Từ những lý do trên, chúng tôi đề xuất sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: "Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua bài 3 lớp 11 môn Giáo Dục Quốc Phòng – An ninh: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" với mục đích giúp các em học sinh nhận thức đúng đắn và rõ ràng về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo HS và TS tránh nhận thức sai lệch trước âm mưu của các thế lực thù địch. 2. Tính mới, đóng góp mới của đề tài 2.1. Tính mới của đề tài Đây là đề tài đã được nghiên cứu, thực nghiệm thành công và đúc rút từ kinh nghiệm có tính thực tiễn cao được triển khai trên hai cơ sở giáo dục. Đề tài đã kế thừa nhiều thành tựu trong nỗ lực giáo dục tư tưởng bảo vệ chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của HS qua giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia". Từ đó tìm ra một hướng đi mới trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này khi dạy học bài 3 lớp 11 môn GDQP - AN cho HS THPT. 2.2. Đóng góp mới của đề tài Người Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã từng nói " lật thuyền cũng là dân, đẩy thuyền cũng là dân", do đó việc giáo dục tư tưởng cho người dân nói chung và thế hệ trẻ học sinh – tương lai của đất nước là vô cùng quan trọng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài đã tìm ra những biện pháp giáo dục góp phần quan trọng trong việc xây dựng ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo cho học sinh. 3. Mục đích, phạm vi, đối tượng, phương pháp và thời gian nghiên cứu. 3.1. Mục đích nghiên cứu - Thấy được vai trò, ý nghĩa của dạy học bài 3: Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia ( GDQP –AN lớp 11) trong khẳng định chủ quyền biển đảo trên 2 quần đảo HS và TS. - Đề xuất các biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền của học sinh qua việc giảng dạy bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia. - Phương pháp soạn giảng bài 3: Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia. 3.2. Phạm vi, đối tượng,thời gian nghiên cứu PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở vấn đề nghiên cứu 1.1. Cơ sở lý luận Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo ở ngoài khơi Việt Nam: quần đảo Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré, một đảo ven bờ của Việt Nam, khoảng 120 hải lý; cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía Đông; quần đảo TS chỗ gần nhất cách Vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lý về phía Đông. Từ lâu nhân dân Việt Nam đã phát hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà bình. Luật Biển Việt Nam được kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sathuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam”. Tuy nhiên, việc tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên biển Đông đã, đang và sẽ diễn ra gay gắt; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớnTrong số các chủ thể tranh chấp ở biển Đông, Trung Quốc là quốc gia có tham vọng lớn nhất. Tham vọng đó đã được các nhà lãnh đạo các thế hệ khác nhau từ Mao Trạch Đông đến nay, bằng những biện pháp và phương thức khác nhau thực hiện. Từ hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, thành lập các đơn vị hành chính đến khẳng định trên thực địa, nhằm từng bước kiểm soát, khống chế tiến đến độc chiếm biển Đông, lấy biển Đông làm bàn đạp tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ DươngTình hình này đặt ra cho Việt Nam: một mặt, cần khai thác các chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; nhưng mặt khác, cũng cần phải đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái của phía Trung Quốc, kể cả quan điểm chính thức và quan điểm của học giả . Theo ý nghĩa đó, bài viết này sẽ tập trung phân tích những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngay từ thời xa xưa, các sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam như “Toản Tập Thiên Nam tứ chí Lộ Đồ Thư”, “Giáp Ngọ Bình Nam đồ”, “Phủ biên tạp lục”, “Đại Nam nhất thống toàn đồ”, “Đại Nam nhất thống chí” ghi chép rõ Bãi cát vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa (cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam. Với tư cách là người làm chủ, trong nhiều thế kỷ nhà nước phong kiến Việt Nam cũng đã nhiều lần tiến hành điều tra khảo sát địa hình và khai thác tài nguyên trên 24/7/1933, Pháp thông báo cho Nhật việc Pháp đưa quân ra đóng các đảo chính trong quần đảo Trường Sa. Ngày 04/4/1939, Pháp đã phản kháng Nhật đặt một số đảo trong quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài phán của Nhật. Từ sau thế chiến thứ 2 cho đên nay, Việt Nam cũng đã nhiều lần khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đâỏ Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 26/01/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, ngày 14/2/1974 tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam; xiii) tháng 9/1975, đoàn đại biểu chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị khí tượng Colombo tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và yêu cầu Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) tiếp tục ghi tên trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam trong danh mục trạm khí tượng của Tổ chức Khí tượng Thế giới (trước đây đã được đăng ký trong hệ thống các trạm của WMO dưới biển số 48.860; xiv) Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau này, khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa; xv) Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoặc trong các công hàm gửi các bên liên quan, trong các tuyên bố của Bộ Ngoại giao, trong các Hội nghị của Tổ chức Khí tượng Thế giới (ở Genève (tháng 6/1980), của Hội nghị Địa chất Thế giới ở Paris (tháng 7/1980) v.v. Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố “Sách Trắng” (năm 1979, 1981, 1988) về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, khẳng định hai quần đảo này là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam, Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này, phù hợp với các quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế, ngày 14/3/1988 Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố lên án Trung Quốc gây xung đột vũ trang tại Trường Sa và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, tháng 4/2007, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa (18); xvi) Luật Biển Việt Nam được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam” (19); xvii) ngày 02/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương 981 tới vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 17 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam khoảng 120 hải lý. Đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo công ước luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982. Để bảo vệ giàn khoan HD 981, Trung Quốc đã huy động tới 80 tàu thuyền các loại, trong đó có 07 tàu quân sự, tàu tuần tiễu tên lửa tấn công nhanh 753, 33 tàu hải cảnh cùng nhiều tàu vận tải và ngư binh. Hằng ngày Trung Quốc còn điều động hàng chục tốp máy bay hoạt động trên bầu trời khu vực đó. Có Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý quần đảo này. Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ và trong khi chính quyền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, CHND Trung Hoa đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, CHND Trung Hoa lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ. Mọi hành động xâm lược bằng vũ lực nói trên của CHND Trung Hoa đều gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa và đều bị Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế, đại diện cho Nhà nước Việt Nam quản lý phần lãnh thổ miền Nam Việt Nam theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, lên tiếng phản đối mạnh mẽ trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và dư luận. 1.2.1.2. Đối với quần đảo Trường Sa: - Trung Quốc: Đã tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở đầu bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp khẳng định "các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc". Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xâm chiếm đảo Ba Bình. Năm 1956, quân đội Đài Loan lại tái chiếm đảo Ba Bình. Năm 1988, CHND Trung Hoa huy động lực lượng đánh chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía tây bắc Trường Sa ra sức xây dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng quân kiên cố, như những pháo đài trên biển. Năm 1995, CHND Trung Hoa lại huy động quân đội đánh chiếm đá Vành Khăn, nằm về phía Đông Nam quần đảo Trường Sa. Hiện nay họ đang sử dụng sức mạnh để bao vây, chiếm đóng bãi cạn Cỏ Mây, nằm về phía Đông, gần với đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_khang_dinh_chu_quyen_cua_viet_nam_doi.docx