Sáng kiến kinh nghiệm Tiếp cận tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” theo hướng tích hợp

docx 31 trang sk11 03/06/2024 960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tiếp cận tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” theo hướng tích hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tiếp cận tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” theo hướng tích hợp

Sáng kiến kinh nghiệm Tiếp cận tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” theo hướng tích hợp
 1. MỞ ĐẦU
 1.1. Lý do chọn đề tài
 Hiện nay, môn Ngữ văn không còn thu hút được sự chú ý cả học sinh. 
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do: nhu cầu thực dụng của học sinh về 
thi đại học; nội dung chương trình còn mang tính hàn lâm; hình thức tổ chức dạy 
học còn đơn điệu; phương pháp dạy học chủ yếu đọc chép chưa đáp ứng được 
nhu cầu của học sinh. Bên cạnh đó, người dạy còn nặng về truyền thụ kiến thức, 
người học thụ động, không tự học.
 Đối với tác phẩm trữ tình của văn học trung đại thì còn khó khăn hơn, bởi 
sự khác biệt về thời gian sống và quan điểm tư tưởng của nhà thơ. Người dạy và 
người học cần phải nắm được đặc trưng thể loại, hiểu được đặc điểm của hình 
tượng nhân vật trung tâm, cái tôi trữ tình của tác giả Giáo viên và học sinh 
chưa chú trọng vào việc giảng dạy và học tập tác phẩm theo đặc trưng thể loại. 
Ngoài ra, số tác phẩm và việc phân bố thời lượng cho những bài dạy về hát nói 
còn quá ít, Bài ca ngất ngưởng và bài đọc thêm Bài ca phong cảnh Hương Sơn 
đều gộp chung với các tác phẩm khác. Học sinh không có nhiều thời gian để trải 
nghiệm thể hát nói và nội dung tư tưởng của tác phẩm.
 Phương pháp dạy học hiện nay là phát huy năng lực người học, lấy học 
sinh làm trung tâm. Yêu cầu này đặt ra cho giáo viên một thách thức, phải làm 
thế nào để thu hút học sinh vào bài học, làm thế nào để khắc sâu kiến thức? 
Để thiết kế một tiết dạy hiệu quả, giáo viên cần vận dụng tổng hợp kiến thức của 
các môn học liên quan nhằm định hướng cho học sinh cách tiếp cận tác phẩm.
 Từ những lí do trên, tôi chọn vấn đề TIẾP CẬN TÁC PHẨM “BÀI CA 
NGẤT NGƯỞNG” THEO HƯỚNG TÍCH HỢP làm đề tài nghiên cứu.
 1.2. Mục đích nghiên cứu.
 Đề tài nghiên cứu sẽ giúp người dạy và người học nhận ra những hạn chế 
của phương pháp dạy học truyền thống, những ưu điểm của phương pháp dạy 
học tích cực, từ đó biết tích hợp kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề.
 1 2.1.1. Dạy học tích hợp
 2.1.1.1. Khái niệm
 Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, 
chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích 
hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”.
 Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng 
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác 
nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”.
 2.1.1.2. Mục đích của dạy học tích hợp 
 - Học đi đôi với hành, chú trong năng lực hoạt động
 - Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và tư duy độc lập của người 
học trong việc chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
 - Học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có 
hệ thống và thấy được mối quan hệ biện chứng giữa kiến thức các môn được học 
trong chương trình. 
 - Thực hiện linh hoạt các phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung 
kiểu bài và đặc thù của bộ môn.
 Mô tả tác động của phương pháp dạy học tích cực
 2.1.1.3. Đặc điểm của dạy học tích hợp
 - Lấy người học làm trung tâm
 - Định hướng đầu ra
 - Dạy và học các năng lực thực hiện
 3 2.1.2.2. Đặc điểm của thể hát nói 
 - Đây là một thể thơ riêng của Việt Nam, phát triển mạnh và đạt đến trình 
độ mẫu mực trong thế kỷ XVIII và XIX với các tác giả kiệt xuất như Nguyễn 
Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê
 - Bài hát nói được viết bằng loại câu thơ như lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn; 
gieo vần chân, vần lưng, vần bằng, vần trắc; số tiếng trong câu không cố định. 
Một bài đủ khổ gồm 11 câu, có những bài dôi khổ thường có 15,19,23,27 câu.
 - Bài hát nói được chia làm hai phần: mưỡu (có mưỡu đơn và mưỡu kép) 
và hát nói. Một bài hát nói thường gồm 11 câu, chia làm 6 khổ:
 Khổ nhập đề: câu 1,2 (mở bài).
 Khổ xuyên tâm: câu 3,4.
 Khổ đan: câu 5,6; là hai câu chữ Hán hay quốc âm và thường 
 đối nhau nêu ý chính của bài hát.
 Khổ xếp: câu 7,8.
 Khổ rải: câu 9,10.
 Khổ kết: câu 11 tóm tắt ý chính toàn bài.
 Ví dụ:
 Bài hát nói đủ khổ:
 Gặp cô đầu cũ (II) (Dương Khuê)
Hốt ức lục, / thất niên / tiền sự, 1.0 x T / x B / x T
Trải trăng hoa / chưa trả nợ / hương nguyền. 2.0 x B / 0 t T / b B
Đến bây giờ / lại gặp / người quen, 3.0 b B / t T / b B
Nỗi lưu lạc / sự ghét ghen / là thế nhỉ. 4.0 x T / 0 x B / 0 x T
Thiếp tự thân khinh, lang vị khí, 5.t T b B b T T (Thơ)
Thần tuy tội trọng, đế do liên. 6.b B t T t B B (Thơ)
Can chi mà/ tủi phận/, hờn duyên, 7.0 b B / t T / b B
Để son phấn/ đàn em/ thêm khúc khích. 8.0 x T / b B / 0 t T
Ý trung nhân/ tự khả tình/ tương bạch, 9.0 b T / 0 x B / x T
Thôi bút nghiên/, đàn phách/ cũng đều sai. 10. 0 x B / x T / 0 b B
Trông nhau/ nói nói/, cười cười 11. b B / t T / b B
 5 2.2. Thực trạng của vấn đề
 Do đặc thù môn học, việc tích hợp trong giờ học Ngữ văn là hoạt động 
phức hợp đòi sự tích hợp các kiến thức, kỹ năng, năng lực liên môn để giải 
quyết nội dung bài học gắn với thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, 
trong quá trình chuẩn bị và tiến hành tiết học, tôi luôn cố gắng vận dụng, tích 
hợp kiến thức liên môn để học sinh nắm sâu kiến thức đáp ứng nhu cầu học tập 
và cuộc sống.
 Tuy nhiên, khi vận dụng dạy tích hợp liên môn, giáo viên còn gặp nhiều 
khó khăn. Để giờ học đạt kết quả, giáo viên cần nhiều thời gian đầu tư cho giáo 
án, tìm kiếm nhiều thông tin và phải có kiến thức liên ngành vững chắc. Mặt 
khác, áp lực về thời lượng tiết dạy, phân phối chương trình, số lượng môn học 
khiến cả người dạy và người học chưa thể toàn tâm toàn ý mà chỉ dừng lại ở một 
số bài học, một số chủ đề.
 Trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 11 hiện hành, có hai tác phẩm thuộc 
thể loại hát nói là: Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) và bài đọc thêm Bài 
ca phong cảnh Hương Sơn (Chu Mạnh Trinh). Tuy nhiên, thời lượng chương 
trinh ít (khoảng 3 tiết) cho cả hai bài và đây lại là thể hát nói - một thể thơ khá 
xa lạ với học sinh hiện nay nên khi tiếp cận những tác phẩm này, chúng ta thấy 
thực trạng sau:
 - Chưa dạy bài hát nói theo đặc trưng thể loại: 
 + Giáo viên chưa tổ chức cho học sinh phát hiện, tìm hiểu văn bản dựa 
vào đặc điểm của bài hát nói.
 + Chưa chú trọng tổ chức cho học sinh phát hiện được đặc điểm của cái 
tôi tác giả trong mỗi bài hát nói: lối tự thuật, tự nhìn nhận và đánh giá bản thân 
với giọng điệu thơ tự hào, sảng khoái, tự tin mà giáo viên thường cung cấp một 
cách khiên cưỡng và học sinh đón nhận một cách thụ động.
 + Chưa chú trọng tạo hứng thú, bầu không khí văn chương để khơi gợi 
cảm xúc thẩm mĩ về thể hát nói.
 - Khi dạy bài hát nói, giáo viên thường tập trung khai thác tác phẩm ở 
hình tượng nhân vật. Đây là cách khai thác thường được triển khai khi tìm hiểu 
 7 và đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Đời sống nhân dân cực khổ lầm than. Ca 
dao cũng đã ghi lại tình cảnh của nhân dân trong thời kỳ này như sau:
 “Cái cò lặn lội bờ sông,
 Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
 Nàng về nuôi cái cùng con, 
 Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”.
 Hay những câu ca dao ghi lại nỗi lòng của người dân trong cảnh “nồi da 
xáo thịt” trong cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn:
 “Sông Gianh nước chảy đôi dòng,
 Đèn Chong đôi ngọn, biết trông ngọn nào?”
 Lược đồ nước Đại Việt thời Trịnh - Nguyễn phân tranh
 + Sự xuất hiện của các trung tâm buôn bán sầm uất như Kẻ Chợ, Đồ Sơn, 
Phố Hiến... đã đưa đến diện mạo mới cho xã hội Việt Nam. Cùng với đó là sự ra 
đời của các cao lâu tửu quán - một hình thức giải trí mới của nhịp sống đô thị. 
Những bậc vương tôn công tử, tao nhân mặc khách, các nho sinh và các quan 
 9 + Cung cấp những mốc thời gian quan trọng trong cuộc đời mà nhà thơ 
luôn tự hào về một sự nghiệp hiển hách: Năm 1819, ông đỗ Giải nguyên kì thi 
Hương; năm 1833 là Tham tán quân vụ; năm 1835 làm Tổng đốc hai tỉnh Hải 
Dương và Quảng Yên; năm 1481 thăng Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở 
vùng Tây Nam bộ; năm 1848 chính thức làm Phủ doãn Thừa Thiên. Đóng góp 
lớn của Nguyễn Công Trứ trong việc củng cố vương triều Nguyễn, đưa dân đi 
khai khẩn các vùng đất mới: Ông là người có nhiều công lao đối với dân, với 
nước. Năm 1828 ông dâng sớ lên vua Minh Mệnh xin “khai ruộng đất hoang để 
yên nghiệp dân nghèo” và được phong làm Doanh điền sứ phụ trách khai khẩn 
đất hoang ở miền ven biển các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Những bãi 
biển hoang vu, với tài năng cùa vị Doanh điền sứ đã trở thành miền đất phì 
nhiêu, trù phú. Nhân dân ở Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) ghi nhớ 
công lao và lập đền thờ Nguyễn Công Trứ từ năm 1852, ngay khi ông còn sống. 
Năm 1858 nghe tin thực dân Pháp đánh Đà Năng, mặc dù đã ngoài tám mươi 
tuổi, Nguyễn Công Trứ còn dâng sớ xin được tòng quân đánh giặc, với lời lẽ rất 
thông thiết: “Thân già này còn thở ngày nào thì xin hiến cho nước 
ngày ấy”. Tiếc thay tháng 11 năm đó, ông ngã bệnh và mất.
 Như vậy, có thể nói, nhờ vào việc tích hợp kiến thức môn Lịch sử mà nội 
dung của văn bản thêm rõ ràng, học sinh khi tiếp cận tác phẩm không chỉ hiểu 
đơn thuần về hình tượng nghệ thuật của tác phẩm, mà các em còn có cơ hội biết 
thêm hoặc khắc sâu thêm kiến thức lịch sử cho bản thân. 
 2.3.1.2. Văn hóa
 Mục đích của việc tích hợp kiến thức về văn hóa là để học sinh có cái 
nhìn cụ thể, bao quát hơn về đời sống văn hóa tinh thần, đạo đức nhân sinh, cách 
hành xử của các nhà nho xưa và các nhà nho tài tử. 
 + Trước hết tôi giải thích cho học sinh biết quan niệm về lễ, danh giáo 
của nhà nho.
 11 sống thật hơn, dám là chính mình, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân, vượt ra 
ngoài khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Ta sẽ thấy thái độ đề cao thú chơi của 
ông có một ý nghĩa tích cực. Hai mảng thơ hành đạo (thực hiện sứ mệnh của 
người anh hùng trên đời) và hành lạc (hưởng thú vui) luôn thống nhất trong 
cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ vừa khát khao công danh vừa vô 
cầu, vừa hăng say nhập thế vừa biết thanh thản xuất thế
 2.3.1.3. Âm nhạc
 Mục đích của việc tích hợp kiến thức môn Âm nhạc vào trong bài giảng là 
để làm cho bài giảng sinh động, hấp dẫn, giúp học sinh dễ cảm nhận các yếu tố 
trữ tình trong tác phẩm hát nói. Trong ở bài học này các em sẽ có cơ hội trải 
nghiệm loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
 Cách thức tiến hành như sau:
 + Tôi cho học sinh quan sát, tìm hiểu về loại hình ca trù (kết hợp thuyết 
minh) để học sinh hiểu hơn về thể hát nói cũng như ý thơ khi ca, khi tửu, khi 
cắc, khi tùng.
 Ca trù vừa là một loại thanh nhạc (vocal music), vừa là một loại khí 
nhạc (instrumental music). Có một ngôn ngữ âm nhạc tế nhị, tinh vi.
 * Thanh nhạc: Ca nương phải có một giọng thanh - cao - vang, khi hát 
 phải biết ém hơi, nhả chữ và hát tròn vành rõ chữ, biết nảy hạt (đổ 
 hột), đổ con kiến. Ca nương vừa hát, vừa gõ phách. Phải biết rành 5 khổ 
 phách cơ bản, đánh lưu không, tiếng phách phải chắc và giòn, lời ca và 
 tiếng phách phải ăn khớp với nhau.
 * Khí nhạc: Kép đàn dùng đàn đáy phụ họa. Bản đàn không nhất thiết 
 phải đi theo bài hát, vì phải theo khổ đàn, nhưng khổ đàn - khổ phách - 
 tiếng ca hợp nhau, hài hòa nhuần nhuyễn. Có những cách đàn ca chân 
 phương - theo lề lối hay hàng hoa - sáng tạo và bay bướm.
 * Quan viên là người cầm chầu, tiếng trống chầu vừa chấm câu khi tham 
 gia vào cuộc diễn tấu, nhưng có tính chất phê phán, khen chê đúng chỗ, 
 để khích lệ ca nương - kép đàn, giúp cho thính giả biết được đoạn nào hay 
 - thật hay và như thế được giáo dục âm nhạc trong cách nghe.
 13

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_tiep_can_tac_pham_bai_ca_ngat_nguong_t.docx