Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ GIANG =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT. Tác giả sáng kiến: Phan Thị Hạnh Mã sáng kiến: 25.51.. Vĩnh Phúc, tháng 2 năm 2019 2 A. Một số dạng đề liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.................29 B. Hướng dẫn học sinh làm các dạng đề liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.................................................................................................................29 Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm” Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài .....................................................29 C.Những lưu ý khi làm các dạng đề liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.................................................................................................................44 KẾT LUẬN..........................................................................................................45 ĐỀ XUẤT.............................................................................................................45 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): không........................................46 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến...................................................46 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung........................46 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: .................................................................................46 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:..................................................................46 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) ....................................................................................47 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................48 4 Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT có ý nghĩa quan trọng về mặt lí luận. Chuyên đề này góp phần giúp người đọc nắm rõ hơn các vấn đề như: khái niệm, các phương thức, phương tiện miêu tả tâm lí nhân vật, tâm và tài của người nghệ sĩ, đặc trưng phong cách của tác giả qua nghệ thuật diễn tả nội tâm con người...Từ đó giúp học sinh giải 1 số dạng đề liên quan đến kiến thức lý luận văn học được trình bày trong phần một của chuyên đề. 1.2. Cơ sở thực tiễn Trong chương trình Ngữ văn THPT (bao gồm cả SGK Cơ bản và SGK Nâng cao), có khá nhiều tác phẩm, đoạn trích liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật: Lớp 10 có các bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, Nỗi sầu oán của người cung nữ, Trao duyên, Nỗi thương mình. Lớp 11 có Hai đứa trẻ, Chí Phèo. Lớp 12 có Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Những đứa con trong gia đình. Các tác phẩm này chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng số các tác phẩm đọc hiểu có mặt trong chương trình. Trong các kì thi tốt nghiệp, Đại học, thi học sinh giỏi các cấp, chúng ta cũng gặp các đề có liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Học sinh cần hiểu sâu sắc vấn đề này mới có thể làm bài tốt được. Từ thực tế trên, việc tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của một số tâc giả trong chương trình là cần thiết. Và là chìa khóa giúp cho học sinh giải đề thi THPT Quốc gia và các kì thi khác. 2. Tên sáng kiến: Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT. 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Phan Thị Hạnh - Ðịa chỉ : Trường THPT Nguyễn Thị Giang - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc. - Số điện thoại: 0988599085 - Email: phanhanh153@gmail.com 6 nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người. Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, ca cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của G. Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan...Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: "Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau dường như cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này: "Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" Hay việc giới thiệu Hoạn Thư: "Ở ăn thì nết cũng hay, Nói điều ràng buộc thì tay cũng già" 8 luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả". 2. Thế giới tâm lí của con người và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tác phẩm văn chương. 2.1. Thế giới tâm lí của con người Con người là một sinh thể có đời sống hết sức phong phú, phức tạp. Thế giới tâm lí của con người là một tiểu vũ trụ với những điều bí ẩn, vi diệu, những vận động, biến đổi hết sức tinh vi. Vì thế mà cổ nhân từng than thở “tri nhân tri diện bất tri tâm” (Biết người chỉ là biết được diện mạo bên ngoài, không biết được tâm tính bên trong). Nắm bắt được nội tâm con người không phải là chuyện đơn giản, nhìn thấy được những điều vô hình trong đáy hồn nhân sinh không phải là việc dễ làm. Như trên đã nói thế giới tâm lí của con người bao gồm toàn bộ những hoạt động, trạng thái trong đời sống tinh thần của mỗi cá thể. Những trạng thái ấy có thể thuộc về lí trí (tư tưởng, suy nghĩ), có thể thuộc về tình cảm (cảm xúc, rung động). Theo lí thuyết phân tâm học, những trạng thái tinh thần mà con người có thể điều khiển được, nhận thức được thì thuộc về ý thức, nhưng có những trạng thái tinh thần con người không điều khiển được, không nhận biết được thì lại thuộc về cõi vô thức (chẳng hạn, giấc mơ là sản phẩm của vô thức); khoảng giao thoa giữa ý thức và vô thức là tiềm thức. Thế giới tâm lí của con người được sản sinh, phát triển cùng với sự lớn lên của thể chất và chịu sự chi phối của hoàn cảnh, môi trường. Mỗi người mang một cá tính riêng, đời sống nội tâm riêng. Trong cuộc sống, để nhận biết diễn biến tâm trạng của một người, có thể nhìn vào sự biến đổi của sắc diện, hành động, cử chỉ, ngôn ngữ của họ. Duy chỉ có những suy nghĩ, những lời độc thoại trong tâm trí của người đối diện là chúng ta không thể biết được chính xác nó 10 Dòng độc thoại nội tâm của con người, như đã nói ở trên, là yếu tố không thể nhìn thấy bằng đôi mắt sinh học. Chỉ có con mắt của người nghệ sĩ mới khám phá được và chỉ có ngôn từ mới có thể hữu hình hóa những yếu tố vô hình ấy. Tất cả những suy nghĩ, trăn trở, băn khoăn trong các miền khuất lấp của nội tâm, những lời nói bên trong tâm hồn nhân vật được nhà văn diễn giải bằng câu chữ. Độc thoại nội tâm, như chúng ta đã biết, là những lời nhân vật nói với chính mình trong tâm tưởng. Cũng có trường hợp con người hướng đến một người khác vắng mặt để thổ lộ, thực chất đây cũng là một trường hợp độc thoại. Miêu tả độc thoại nội tâm là thủ pháp rất đắc dụng để diễn tả tâm lí nhân vật. Trong văn học Việt Nam, ở thời kì trung đại, nhân vật chủ yếu chỉ được miêu tả tâm lí qua ngoại hình, hành động, ít khi được miêu tả trực tiếp qua độc thoại nội tâm (tất nhiên là cũng có một số ít cây bút rất tài hoa trong việc khắc họa nội tâm như Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều). Đến văn học hiện đại, với sự tiếp thu nghệ thuật tự sự của văn học phương Tây, thủ pháp miêu tả trực tiếp nội tâm nhân vật mới trở nên phổ biến. Cũng cần phải nói thêm rằng: Trong việc miêu tả tâm lí nhân vật bằng độc thoại, kỹ thuật “dòng ý thức” là thủ pháp cao nhất để mổ xẻ, chiếm lĩnh những vùng sâu nhất trong thế giới tâm hồn, tâm linh của con người. Những tác phẩm được viết theo kỹ thuật này nhìn chung “khó đọc”, khó tiếp nhận đối với độc giả phổ thông, do vậy, chúng gần như không được đưa vào chương trình THPT. Kỹ thuật này được sử dụng nhý một chìa khoá đắc lực để khai mở các miền u uẩn, các vùng tiềm thức, các không gian tâm linh trong cõi hồn sâu thẳm của con người - những yếu tố mà cái nhìn lý tính thuần tuý không thể nắm bắt và lí giải được.Thuật ngữ “dòng ý thức” (stream of consciousness) vốn được nhà tâm lý học người Mỹ William James (1842 - 1910) đưa ra trong cuốn Cơ sở tâm lý học (The Principles of Psychology) xuất bản năm 1890. Ông cho rằng ý thức là một dòng chảy, một dòng sông mà ở đó những lý tưởng, cảm xúc, liên tưởng bất chợt luôn lấn át, đan bện vào nhau. Kỹ thuật dòng ý thức là mức tới hạn, là dạng cực đoan của độc thoại nội tâm. Đây là thủ pháp được các nhà văn Việt Nam 12 thế mạnh của các loại điểm nhìn khác nhau; sử dụng, điều phối, chuyển dịch giữa điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong một cách linh hoạt. Tương ứng với điểm nhìn bên ngoài là ngôn ngữ gián tiếp. Chẳng hạn, trong truyện ngắn Vợ nhặt, ngôn ngữ mà Kim Lân dùng để miêu tả diện mạo của nhân vật Tràng là ngôn ngữ gián tiếp với điểm nhìn bên ngoài của người trần thuật ngôi thứ ba: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với điểm nhìn bên trong, khi miêu tả độc thoại nội tâm, người cầm bút có thể dùng ngôn ngữ trực tiếp và ngôn ngữ nửa trực tiếp. Ngôn ngữ trực tiếp là trích dẫn nguyên văn, trực tiếp lời độc thoại của nhân vật. Chẳng hạn, trong tác phẩm Vợ nhặt, khi miêu tả độc thoại nội tâm của Tràng, tác giả viết: “Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Ngôn ngữ nửa trực tiếp cũng là trường hợp miêu tả độc thoại nội tâm của nhân vật nhưng điểm đặc biệt là ở chỗ: điểm nhìn, giọng điệu của người kể chuyện như hòa vào làm một với điểm nhìn, giọng điệu của nhân vật. Ví dụ, trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, khi miêu tả sự trỗi dậy của niềm khát yêu, khát sống trong lòng Mị vào đêm tình mùa xuân, Tô Hoài viết: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết”. Ở đây, ngôn ngữ của người kể chuyện ở ngôi thứ ba đã hòa vào ngôn ngữ của nhân vật, điểm nhìn bên ngoài giao hòa với điểm nhìn bên trong. Hay nói cách khác, đây là trường hợp tác giả dùng lời nửa trực tiếp để diễn tả tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ nửa trực tiếp tạo nên một hiệu ứng “đa thanh” trong nghệ thuật tự sự, hai loại giọng điệu (của người trần thuật và của nhân vật) tuy thống nhất làm một nhưng âm sắc riêng của từng giọng vẫn tồn tại chứ không mất đi. Mỗi loại câu phân theo chức năng ngữ pháp (câu trần thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán) đều có khả năng diễn tả tâm lí con người. Việc tạo sinh và sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các loại câu này có hiệu quả không nhỏ trong việc biểu đạt tâm trạng con người.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_tim_hieu_nghe_thuat_mieu_ta_tam_ly_nha.docx
- Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương tr.pdf