Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn thiết kế tiến trình dạy học chủ đề “hợp tác – liên kết cùng phát triển” (dành cho học sinh lớp 11)

docx 18 trang sk11 27/06/2024 1140
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn thiết kế tiến trình dạy học chủ đề “hợp tác – liên kết cùng phát triển” (dành cho học sinh lớp 11)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn thiết kế tiến trình dạy học chủ đề “hợp tác – liên kết cùng phát triển” (dành cho học sinh lớp 11)

Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn thiết kế tiến trình dạy học chủ đề “hợp tác – liên kết cùng phát triển” (dành cho học sinh lớp 11)
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
 Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp Sở
 Tôi ghi tên dưới đây:
 TT Họ và tên Ngày tháng Nơi Chức Trình Tỷ lệ 
 công tác vụ độ (%)
 năm sinh
 chuyên đóng 
 môn góp 
 vào 
 việc 
 tạo ra 
 sáng 
 kiến
 1 Tạ Thị Quỳnh Hoa 20/11/1991 THPT Giáo Cử 100%
 Bình viên nhân
 Minh Giáo
 dục
 công
 dân
1. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng
 Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến :
 VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TÍCH HỢP, LIÊN MÔN Thông thường giáo án soạn theo phương pháp cũ được GV xây dựng theo 
cấu trúc của một giờ học gồm các bước như sau:
 - Kiểm tra bài cũ.
 - Giới thiệu bài mới.
 - Dạy bài mới.
 - Luyện tập, củng cố kiến thức hình thành ở HS.
 - Hướng dẫn HS làm việc ở nhà.
 Cấu trúc một bài soạn theo phương pháp truyền thống ở trên cho thấy sự 
sắp xếp một cách công thức, cứng nhắc, chi tiết, đầy đủ những việc làm của GV 
và HS theo một trình tự nhất định.
* Các phương pháp GV thường sử dụng trong bài dạy là:
1.1. Phương pháp thuyết trình nêu vấn đề
 - Là phương pháp để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi 
tiết, dễ hiểu cho HS tiếp thu. Đối với HS qua nghe giảng giải nhanh chóng hiểu 
được vấn đề và học được PP trình bày vấn đề học tập một cách có hệ thống. GV 
thường sử dụng PP này khi tiến hành nội dung các kiến thức cần nhớ trong bài 
học, thể hiện mối liên hệ kiến thức trong một phần hoặc toàn bộ chương trình.
 - Tuy nhiên, đây là phương pháp độc thoại, HS rơi vào tình trạng thụ 
động, phải cố gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình bày ý kiến 
riêng của mình dẫn đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích của GV.
1.2. Làm việc với sách giáo khoa
 - Ưu điểm: HS làm việc một cách độc lập, tích cực, tạo không khí sôi nổi 
trong học tập và phát huy năng lực tư duy của HS. Mục đích của bài soạn này là làm sao truyền thụ được nội dung thông tin 
định sẵn theo ý muốn chủ quan của GV. Để đạt được mục đích đó, GV sắp xếp 
một cách lôgic kết cấu bài soạn sao cho thích hợp với nội dung cần truyền đạt. 
Nội dung cần truyền đạt này chỉ căn cứ vào nội dung bài học trong SGK. Như 
vậy, lôgic của bài soạn chỉ dựa vào SGK và lập luận của người trình bày mà 
không tính đến khả năng tiếp nhận kiến thức của HS vốn là nhân vật trung tâm 
của hoạt động dạy - học.
 Hiện nay, việc thực hiện chương trình và SGK mới đã góp phần tích cực 
vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa HS. SGK đã 
được thiết kế cho GV dễ dàng tổ chức các hoạt động học tập. Các tình huống có 
vấn đề, các câu hỏi tìm tòi cũng được đặt ra, mặc dù chưa nhiều nhưng đã mang 
tính gợi ý giúp cho GV định hướng phương pháp. Khi dự giờ một số GV, tôi 
thấy phương pháp chủ đạo của đa số GV khi giảng dạy là nêu vấn đề, thuyết 
trình kết hợp với đàm thoại để làm rõ từng vấn đề, cuối cùng là làm bài tập củng 
cố. Phương pháp dạy học trên về ưu điểm đã tạo được sự hứng thú cho HS khi 
bắt đầu bài học bằng cách nêu vấn đề. HS được GV giảng giải kĩ lưỡng từng 
vấn đề cùng với một số câu hỏi phát vấn cũng phần nào phát huy được tính tích 
cực của các em trong hoạt động học tập. HS nắm được một số kiến thức cơ bản 
của bài. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng những phương pháp như đã nêu trên thì 
cũng có những hạn chế nhất định như đối với PP thuyết trình, HS sẽ dễ rơi vào 
tình trạng thụ động, phải cố gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình 
bày ý kiến riêng của mình dẫn đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích 
của GV. Hay PP làm việc với SGK thì kiến thức trong SGK chỉ hạn chế trong 
lượng kiến thức của môn học, chưa đề cập được hết tất cả các kiến thức, tình 
huống mà HS sẽ gặp trong cuộc sống. Đối với PP đàm thoại, nếu vận dụng 
không khéo sẽ dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng đến kế hoạch lên lớp, biến vấn 
đáp thành cuộc đối thoại giữa GV và một vài HS, không thu hút toàn lớp tham 
gia vào hoạt động chung. Nếu câu hỏi đặt ra chỉ đòi hỏi nhớ lại tri thức một thực hiện sẽ giúp các em HS hiểu được thế nào là hợp tác, thấy rõ được lợi ích 
của hợp tác thông qua những minh chứng cụ thể. Từ nội dung kiến thức sẽ giúp 
các em vận dụng vào giải quyết các tình huống trong thực tế cuộc sống để hợp 
tác với mọi người xung quanh,đạt kết quả tốt. Tôi thấy khi dự án có kết hợp 
với kiến thức của các môn học khác sẽ giúp GV tiếp cận tốt hơn, hiểu rõ hơn, 
sâu hơn những vấn đề đặt ra. Từ đó bài dạy sẽ trở nên sâu sắc, sinh động hơn. 
HS có hứng thú học bài, được tìm tòi, khám phá nhiều kiến thức và được suy 
nghĩ sáng tạo nhiều hơn, từ đó vận dụng kiến thức vào thực tế tốt hơn.
 Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng việc hiểu và làm đúng quá trình 
tích hợp sẽ giúp nâng cao năng lực của người học, đào tạo những người có đầy 
đủ phẩm chất, năng lực vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương pháp 
của khối lượng tri thức toàn diện, hài hòa và hợp lý trong giải quyết các tình 
huống khác nhau trong cuộc sống hiện đại và làm cho việc học tập trở nên ý 
nghĩa hơn đối với HS so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện 
riêng rẽ. Đồng thời dạy học tích hợp, liên môn giúp hình thành và phát triển ở 
HS các năng lực cần thiết của một người lao động trong tương lai như: NL tự 
học; NL giải quyết vấn đề; NL sáng tạo; NL hợp tác; NL giao tiếp; NL sử dụng 
công nghệ thông tin và truyền thông.
 Giúp cho giờ học trở nên sinh động hơn, vì không chỉ có GV là người 
trình bày mà HS cũng tham gia vào quá trình tiếp nhận kiến thức, từ đó phát 
huy tính tích cực của HS.
 Góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở HS, tạo cho HS một thói 
quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt chúng trong 
một hệ quy chiếu, từ đó mới có thể nhận thức vấn đề một cách thấu đáo.
 Giúp HS hứng thú học tập, từ đó khắc sâu được kiến thức đã học do việc 
dạy học tích hợp liên môn có tính thực tiễn. Vấn đề dân số, lao động và việc làm luôn là bài toán lớn đối với các cấp 
lãnh đạo và đối với bản thân mỗi cá nhân. Bởi đây là những vấn đề ảnh hưởng 
trực tiếp đến sự phát triển bền vững của một quốc gia. Vấn đề dân số có mối 
liên hệ mật thiết với vấn đề lao động và việc làm. Giải quyết tốt bài toán này sẽ 
là bàn đạp để nước ta có thể phát triển bền vững, sánh vai với các cường quốc 
trong khu vực và trên thế giới. Học sinh THPT – thế hệ tương lai sẽ phải làm 
cha, làm mẹ, phải lao động, tìm kiếm việc làm cần có cái nhìn như thế nào và sẽ 
làm gì để có thể giải quyết được những vấn đề này cho chính bản thân.
 - Trong chương trình Địa lí lớp 12 và Giáo dục công dân lớp 10, 11, 12 
đều có nội dung liên quan đến vấn đề dân số, lao động, việc làm ở nước ta. Việc 
cấu trúc lại thành một chủ đề liên môn “Vấn đề dân số - lao động – việc làm ở 
Việt Nam” là cần thiết, tránh tình trạng trùng lặp nhau về nội dung, tránh việc 
cả 2 môn học đều tổ chức dạy học, giảm được thời gian và học tập cho HS. Như 
vậy, việc tích hợp để HS có nền tảng kiến thức một cách hệ thống, tổng quan, 
không rời rạc về vấn đề dân số, lao động, việc làm; thực trạng cũng như giải 
pháp giải quyết vấn đề. Qua đó, khắc phục được tình trạng thiếu sự liên hệ, tác 
động giữa kiến thức của môn Địa lí và GDCD.
 Việc xây dựng chủ đề liên môn tạo điều kiện để đổi mới phương pháp 
dạy học, đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, học sinh được hoạt động, 
được tự học và tự nghiên cứu. Thông qua đó góp phần hướng tới hình thành các 
năng lực, phẩm chất cho HS.
 Nội dung học tập của bài được sử dụng xây dựng thành chủ đề với các 
hoạt động học được xây dựng nối tiếp nhau thành một chuỗi các hoạt động liên 
tục có gắn kết với nhau, HS được nghiên cứu trên lớp, ở nhà, từ đó góp phần 
làm tăng thời gian học tập của HS.
 Để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề dân số, đồng thời góp phần vào việc nâng 
cao chất lượng nguồn lao động và giải quyết được vấn đề việc làm cho người “Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại” vẫn dạy với thời lượng 
như cũ.
 Đối với môn GDCD lớp 11: Không dạy phần kiến thức bài 11 “Chính 
sách dân số và giải quyết việc làm” mà tách ra xây dựng thành chủ đề tích hợp 
liên môn.
 Đối với môn GDCD lớp 12: Không dạy phần kiến thức vai trò của pháp 
luật trong lĩnh vực xã hội (mục 1) và nội dung cơ bản của pháp luật về phát triển 
các lĩnh vực xã hội (mục 2). Phần nội dung còn lại của bài 9 vẫn dạy với thời 
lượng như cũ.
 Đối với môn Địa lí lớp 12: Không dạy phần kiến thức liên quan đến “bài 
16: Đặc điểm dân số và phân bố dân cư nước ta”, “bài 17: Lao động và việc làm 
“mà tách ra xây dựng thành chủ đề tích hợp liên môn.
 Chủ đề này được thực hiện vào giữa học kì II của lớp 11. Thời lượng dạy 
học chuyên đề này là 04 tiết, được lấy từ 02 tiết dạy của môn Địa lí và 02 tiết 
của môn GDCD.
 Với việc vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học kết hợp với các PP, 
kỹ thuật dạy học tích cực, bài dạy sẽ trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
 Những nội dung dạy học trong từng bộ môn mà cần phải sử dụng các 
kiến thức của các môn học khác để giải quyết sẽ kích thích sự hứng thú, chủ 
động của các em, đặc biệt là các em có năng khiếu, sự am hiểu về những môn 
học đó.
 HS sẽ là người chủ động tìm ra kiến thức, GV chỉ là người hỗ trợ, hướng 
dẫn các em.
 Khi vận dụng các kiến thức liên môn kết hợp với các PP dạy học tích cực, 
các em sẽ được tự thể hiện mình, phát triển năng lực làm việc nhóm. Người học Sự hợp tác giữa người học với người học là hết sức quan trọng nhưng vẫn chỉ là 
ngoại lực, điều quan trọng nhất là cần phải phát huy nội lực là tính tự chủ, chủ 
động nỗ lực tìm kiếm kiến thức của người học. Còn người dạy chỉ là người tổ 
chức và hướng dẫn quá trình học tập, đạo diễn cho người học tự tìm kiếm kiến 
thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hành động của chính mình. Người 
dạy phải dạy cái mà người học cần chứ không phải dạy cái mà người dạy có.
 - GV giao nhiệm vụ cho HS, HS sẵn sàng nhận và thực hiện nhiệm vụ: 
HS phải huy động kiến thức từ nhiều môn học để giải quyết. GV giao cho HS 
một nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề. Nhiệm vụ giao cho HS có thể được thể hiện 
dưới nhiều hình thức khác nhau như: giải thích một sự kiện/ hiện tượng trong tự 
nhiên hay xã hội; giải quyết một tình huống trong học tập hay trong thực tiễn; 
tiến hành một thí nghiệm mở đầu  Dưới sự hướng dẫn của GV, HS quan tâm 
đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự nguyện thực hiện nhiệm vụ. Từ nhiệm 
vụ cần giải quyết, HS huy động kiến thức, kĩ năng đã biết và nảy sinh nhu cầu 
về kiến thức, kĩ năng còn chưa biết, nhưng hi vọng có thể tìm tòi, xây dựng 
được; diễn đạt nhu cầu đó thành câu hỏi. Lúc này, vấn đề đối với HS xuất hiện, 
dưới sự hướng dẫn của GV, vấn đề đó được chính thức diễn đạt.
Nhiệm vụ giao cho HS cần đảm bảo rằng, HS không thể giải quyết trọn vẹn với 
kiến thức, kĩ năng đã có mà cần phải học thêm kiến thức mới để vận dụng vào 
quá trình giải quyết vấn đề.
 - GV là người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học 
tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận theo nhóm: Sau 
khi đã phát biểu vấn đề, HS độc lập hoạt động, xoay trở để vượt qua khó khăn, 
tìm các giải pháp để giải quyết vấn đề. Trong quá trình đó, khi cần phải có sự 
định hướng của GV để HS có thể đưa ra các giải pháp theo suy nghĩ của HS. 
Thông qua trao đổi, thảo luận dưới sự định hướng của GV, HS xác định được 
các giải pháp khả thi, bao gồm cả việc học kiến thức mới phục vụ cho việc giải 
quyết vấn đề đặt ra, đồng thời xây dựng kế hoạch hành động nhằm giải quyết

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_van_dung_quan_diem_day_hoc_tich_hop_li.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn thiết kế tiến trình dạy học chủ.pdf